Tư Tưởng Cốt Lõi Trong Cương Lĩnh Chính Trị Đầu Tiên Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Là

Cách đây 93 năm, sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại đối với cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam. Ngay khi mới vừa ra đời, với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách và từng bước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Bạn đang xem: Tư tưởng cốt lõi trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng cộng sản việt nam là

*

Đã 93 năm trôi qua, nhưng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên vẫn là ngọn cờ soi sáng, định hướng cho sự phát triển của đất nước và chỉ đường cho mọi hoạt động của Đảng ta và Nhân dân ta. Điều này được thể hiện rõ từ chính thực tiễn sự vận động của lịch sử dân tộc, của cách mạng Việt Nam kể từ năm 1930 đến nay.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam đứng trước những thách thức hết sức nặng nề khi rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp. Dưới ách độ hộ của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của Nhân dân ta đã liên tiếp diễn ra theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản nhưng đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân chính của sự thất bại đó là do thiếu đường lối và một tổ chức lãnh đạo đúng đắn.

Trong khi đó, giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX do chưa được trang bị lý luận tiên phong là chủ nghĩa Mác - Lênin nên các cuộc đấu tranh vẫn còn tự phát, chưa trở thành phong trào độc lập. Vì vậy, đầu thế kỷ XX, đất nước ta bị lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước đúng đắn. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối trong phong trào yêu nước Việt Nam khi đã thông qua được Cương lĩnh chính trị đầu tiên.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa - phong kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của Nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.

Nội dung được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích những vấn đề cơ bản có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, thể hiện sự đúng đắn của Đảng trong đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa - phong kiến ở Việt Nam, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong xã hội, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ để từ đó, đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam; xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra. Cụ thể:

Thứ nhất, về đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên, là điều kiện tiên quyết để đi đến xã hội cộng sản. Chánh cương vắn tắt của Đảng viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”<1>. Với việc xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản đã cho thấy, ngay từ trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đây chính là sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện một nước thuộc địa, phong kiến; là định hướng quan trọng để trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã từng bước cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Vì vậy, trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn nhất quán khẳng định sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay cả đến hiện nay, tại Đại hội XIII, trong các quan điểm định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn tới, Đảng tiếp tục khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đây là vấn đề có tính nguyên tắc, ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.

Thứ hai, về nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Cương lĩnh đã xác định những nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp bách của cách mạng Việt Nam: Về phương diện chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; Dựng ra Chính phủ công nông binh; Tổ chức ra quân đội công nông. Về phương diện xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; Nam nữ bình quyền; Phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp; Thi hành luật ngày làm 8 giờ.

Cương lĩnh xác định những nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp bách của cách mạng Việt Nam như vậy là hoàn toàn phù hợp với tính chất và mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội nước ta lúc bấy giờ là xã hội phong kiến, thuộc địa. Đây là cơ sở rất quan trọng để Đảng xác định đúng về lực lượng cách mạng và thực hiện các phương pháp, sách lược trong đấu tranh để đưa cách mạng đi đến thành công kể cả trong đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, về lực lượng cách mạng. Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng gồm toàn bộ những người Việt Nam yêu nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm: Công nhân, Nông dân, Tiểu tư sản, Trí thức, Trung nông...; tranh thủ, làm trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản. Trong đó, Sách lược vắn tắt viết: Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”; “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo”; “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông (...) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”, “Đối với (...) phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản (...) thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm chí họ đứng trung lập”<2>.

Nội dung trên đây thể hiện quan điểm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, do liên minh công nhân và nông dân làm nền tảng. Chính quan điểm về lực lượng cách mạng được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên là tiền đề, cơ sở, định hướng để Đảng thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay Đảng vẫn luôn chú chú trọng xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo phương châm không phân biệt giai cấp, địa vị, dân tộc, tôn giáo. Chính điều đó đã tạo nên nguồn lực to lớn cho sự phát triển của đất nước.

Thứ tư, về vấn đề đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, Sách lược vắn tắt viết: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”<3>. Nội dung này thể hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, với phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức và với nhân loại tiến bộ là một vấn đề khách quan. Quan điểm này đã được hiện thực hóa trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và là yếu tố quan trọng tạo nên thành công của cách mạng Việt Nam trong suốt chặng đường 93 năm qua.

Thứ năm, về phương pháp cách mạng. Cương lĩnh xác định phương pháp thực hiện độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tiến hành bằng con đường cách mạng, sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực; không đi vào con đường cải lương, thỏa hiệp. Việc xác định phương pháp cách mạng như vậy thể hiện Đảng đã quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng và cũng xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, thực dân Pháp luôn dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp Nhân dân, vì vậy muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp thì không có con đường nào khác con đường bạo lực cách mạng, chứ không phải con đường cải lương, thỏa hiệp. Quan điểm dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên là cơ sở cho đường lối quân sự với phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng, là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành chính quyền và trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, để đem lại nền hòa bình cho dân tộc.

Thứ sáu, về vai trò lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Nội dung này vừa khẳng định vai trò và bản chất giai cấp của Đảng, vừa là sự định hướng quan trọng cho công tác xây dựng Đảng. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn khẳng định và quan tâm bồi đắp bản chất giai cấp công nhân của Đảng; khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Từ thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam và từ những nội dung được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có thể khẳng định rằng, đây là lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một văn kiện chính trị phản ánh đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới; đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. Chính nhờ có Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên ngay từ khi mới ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân đã lựa chọn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”<4>.

Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh chính trị đầu tiên, nhất là những định hướng về những vấn đề có tính chiến lược của cách mạng được đề cập trong Cương lĩnh chính là nền móng, cơ sở quan trọng để Đảng đã không ngừng cụ thể hóa và có bổ sung, phát triển trong đường lối, chủ trương; trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn của Đảng ở từng giai đoạn lịch sử, dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác ghềnh để đi đến những thắng lợi. Điều này đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử và qua những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhất là trong bối cảnh những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng được xác lập tại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: “Đối vớinước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng”<5>.

Ngay cả đến hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân đã lựa chọn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Th
S. Lê Na, Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa

<1> Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.2, tr.2

<2> Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.2, tr.4

<3> Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.2, tr.4-5

<4> Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr407

<5> Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.109

Từ ngày thành lập đến nay, dưới những hình thức và tên gọi khác nhau, Ðảng ta đã năm lần ban hành cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh. Mỗi cương lĩnh đều chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trò lịch sử trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc ta.

* Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (tháng 2 năm 1930)

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua. Tuy ngắn gọn, chỉ có 282 chữ, nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.

Chánh cương chỉ rõ, về chính trị: Ðánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông.

Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang phát triển công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.

Về xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Cùng với Chánh cương vắn tắt, Bác còn soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thông qua Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Ðiều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Ðảng. Tất cả những tài liệu này đã trở thành những văn kiện quan trọng có tính kinh điển của Ðảng ta, xác lập đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng Cộng sản Việt Nam.

Xem thêm: 5 cách nghe nhạc trên youtube khi tắt màn hình trên điện thoại

* Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10 năm 1930)

*
*
*
*

Bút tích trang đầu dự thảo Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 10/1930. (Ảnh tư liệu)

Luận cương chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương (còn được gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) do đồng chí Trần Phú khởi thảo. Toàn bộ nội dung Luận cương chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương là những tư tưởng cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh cách mạng của Ðảng Cộng sản Ðông Dương; tiếp tục khẳng định và bổ sung một số vấn đề cốt lõi về con đường cách mạng của Việt Nam mà Chánh cương vắn tắt đã nêu.

Luận cương nhận định, nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ, lập ra chính phủ công nông, tịch thu ruộng đất của địa chủ trao cho nông dân; bãi bỏ các sưu thuế hiện thời, ngày làm công 8 giờ, cải thiện sinh hoạt cho thợ thuyền và những người lao động; xứ Ðông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết; lập quân đội công nông; ủng hộ Liên Xô, liên kết với giai cấp công nhân thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa, bán thuộc địa...

Phương pháp đấu tranh của quần chúng là bãi công, bãi công thị oai, bãi công võ trang, tổng bãi công bạo động; kết hợp đòi quyền lợi hằng ngày như tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm thuế, chống thuế... với mục đích lớn của Ðảng là đánh đổ đế quốc, địa chủ phong kiến, giành độc lập, lập chính phủ công nông.

Về vai trò lãnh đạo của Ðảng, Luận cương chỉ rõ: Ðiều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Ðông Dương là cần phải có một đảng cộng sản có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Ðảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc, đại biểu cho quyền lợi chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản, lãnh đạo tranh đấu để đạt mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

* Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2 năm 1951)

Chính cương Ðảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo và được Ðại hội II của Ðảng (tháng 2 năm 1951) thảo luận, thông qua.

Chính cương chỉ rõ: trước khi thuộc Pháp, xã hội Việt Nam căn bản là một xã hội phong kiến, nông dân là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Từ khi thuộc Pháp, Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến; giai cấp công nhân Việt Nam hình thành và trưởng thành nhanh; tư bản Việt Nam ra đời nhưng bị tư bản độc quyền Pháp đè nén nên không phát triển được. Khi Nhật xâm chiếm Việt Nam, chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam cũng trở nên phát-xít hóa, làm cho nhân dân Việt Nam càng thống khổ hơn.

Vì vậy, nhiệm vụ căn bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất thật sự cho đất nước, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ðộng lực của cách mạng Việt Nam lúc này là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc, những thân sĩ yêu nước và tiến bộ; trong đó nền tảng là công nhân, nông dân, trí thức; lực lượng lãnh đạo là giai cấp công nhân. Từ đó Chính cương khẳng định: cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Ðây là một cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt là phải tập trung sức hoàn thành giải phóng dân tộc.

Về chính sách của Ðảng, Chính cương chỉ rõ: hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kháng chiến là thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kháng chiến đến cùng để giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Chính cương còn nêu những quan điểm cơ bản về xây dựng quân đội, phát triển kinh tế tài chính, cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa giáo dục, chính sách đối với tôn giáo, chính sách dân tộc, chính sách đối với vùng tạm chiếm, chính sách ngoại giao, chính sách đối với Việt kiều... Về ngoại giao, Chính cương khẳng định nguyên tắc "tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến"; mở rộng ngoại giao nhân dân, giao thiệp thân thiện với Chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên, đấu tranh cho hòa bình thế giới.

* Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (tháng 6 năm 1991)

Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng, một lần nữa, nhân dân ta lại vượt qua thử thách hiểm nghèo. Mô hình xây dựng CNXH kiểu cũ bị sụp đổ tại trung tâm của hệ thống XHCN. Chế độ chính trị ở Liên Xô, các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Là một quốc gia chưa phát triển, lại vừa trải qua 30 năm chiến tranh, bị bao vây cấm vận, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện công cuộc đổi mới mở đầu từ Đại hội VI, năm 1986. Tại Đại hội VII, lần đầu tiên, Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong điều kiện hòa bình. Đó là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” năm 1991 (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991).

Cương lĩnh chỉ rõ mục tiêu và đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, đó là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Cương lĩnh cũng xác định, quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

Thực hiện Cương lĩnh, Đảng và nhân dân ta một mặt kiên trì mục tiêu và các nguyên tắc của CNXH, mặt khác chuyển đổi mô hình xây dựng đất nước từ mô hình cũ với Nhà nước “chuyên chính vô sản”, “kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp” sang mô hình mới về CNXH. Về chế độ chính trị, đó là chế độ do “nhân dân lao động làm chủ”; về kinh tế, đó là nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”…

* Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011)

Tại Đại hội XI, năm 2011, một lần nữa, Đảng ta điều chỉnh Cương lĩnh 1991. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) được xây dựng trên cơ sở tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, trực tiếp là tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 25 năm công cuộc đổi mới, dự báo xu thế phát triển của thế giới, của đất nước, đề ra mục tiêu, phương hướng và những định hướng lớn phát triển đất nước trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX với tầm nhìn đến giữa thế kỷ. Thực tiễn 10 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn và giá trị to lớn, toàn diện về tư tưởng, lý luận, thực tiễn của Cương lĩnh 2011.

Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tiếp tục khẳng định con đường XHCN, mà đưa vào văn kiện này những nội dung mới phù hợp với những xu thế lớn của thời đại. Đó là xu thế “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển”, đồng thời, Cương lĩnh cũng chỉ ra những thách thức đang diễn ra gay gắt trên thế giới và khu vực. Đó là “… chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang… hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế”.

Theo thời gian và tiến trình lịch sử, mỗi Cương lĩnh của Đảng chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa lớn lao riêng. Các Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến ba cao trào cách mạng trong những năm 30, 40 thế kỷ trước và thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời là cơ sở cho Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh chống thực dân Pháp xâm lược.

Cương lĩnh năm 1951 định hướng cho quyết tâm đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng miền Bắc XHCN, tạo tiền đề cho Đại hội III (9/1960) của Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược tập trung kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam diễn ra suốt từ sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954) đến năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH.

Cương lĩnh năm 1991 là bước phát triển, hoàn chỉnh các Cương lĩnh trước đó của Đảng, mở đầu cho quá trình nhận thức đầy đủ hơn, ngày càng rõ ràng hơn về CNXH và xây dựng xã hội XHCN Việt Nam.

Cương lĩnh 2011 thể hiện niềm tin vững chắc của Đảng trên cơ sở khoa học, thực tiễn về mục tiêu, con đường đi lên CNXH. Niềm tin của Đảng tạo thành niềm tin của đại đa số cán bộ, đảng viên, nhân dân; khắc phục cơ bản sự mơ hồ về sự thay đổi bản chất và tiền đồ của chủ nghĩa tư bản, sự dao động, hoài nghi về tương lai của CNXH. Đây là cơ sở quan trọng góp phần củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.

Những điểm chung trong các Cương lĩnh của Đảng là tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đến cách mạng XHCN, độc lập dân tộc gắn với CNXH; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.